1. Thách thức trong điều trị nhiễm khuẩn do Acinetobacter
baumannii
Đa đề kháng hoặc kháng
toàn bộ các kháng sinh đã và đang là một trong những vấn đề y tế mang tính
thách thức toàn cầu từ đầu thế kỷ XXI liên quan đến điều trị các bệnh lý nhiễm
khuẩn. Trong đó, nhiễm khuẩn do Acinetobacter baumannii kháng carbapenem
(carbapenem-resistant Acinetobacter baumanii, CRAB) là một trong những
thách thức lớn cần đối mặt.
Việc quản lý
nhiễm khuẩn do CRAB gặp rất khó khăn vì một số lý do:
(i).Chủng CRAB thường không
được phát hiện hay không phải lúc nào cũng được phân lập và xác định rõ ràng.
Việc xác định tác nhân này càng thách thức hơn nếu chịu ảnh hưởng bởi chế độ
kháng sinh trị liệu không thích hợp hoặc bởi các yếu tố từ bản thân người bệnh.
(ii).
Một khi A. baumannii biểu hiện khả năng kháng
carbapenem, nó thường kháng với hầu hết các loại kháng sinh khác được cho là có
tác dụng chống lại A. baumannii khác trong tự nhiên, chỉ ngoại trừ một số ít
lựa chọn điều trị khác còn lại mà thôi.
(iii).
Cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có tiêu
chuẩn rõ ràng trong liệu pháp kháng sinh đối với nhiễm khuẩn CRAB để làm căn cứ
đánh giá và ước tính hiệu quả của các phác đồ điều trị khác nhau.
Một
cách ngắn gọn, CRAB kháng Carbapenem thông qua việc :
(i).
Sản xuất các carbapenemase giống với OXA-24/40
và OXA-23.
Một tỉ lệ cao CRAB được quan sát thấy tại các bệnh viện ở miền Nam Việt
Nam, chủ yếu liên quan đến gen blaOXA-23.
(ii).
Tạo ra metallo-β-lactamase và các carbapenemase
serine làm tăng khả năng kháng Carbapenem.
2. Kháng sinh trị liệu trong nhiễm khuẩn do CRAB
2.1. Điều trị CRAB:
nên đơn trị hay phối hợp?
Liệu
pháp kháng sinh đơn trị liệu có thể phù hợp đối với các trường hợp nhiễm khuẩn
nhẹ do CRAB. Trong các lựa chọn, ampicillin-sulbatam nên được ưu tiên.
Sulbactam có hoạt tính chống lại các chủng A.baumannii trong các nghiên cứu
invitro, thử nghiệm trên động vật cũng như các dữ liệu lâm sàng. Các tác nhân
thay thế có thể cân nhắc trong điều trị nhiễm khuẩn nhẹ do CRAB bao gồm
minocyclin, tigecyclin, polymxicin B (colistin cho nhiễm khuẩn tiêu), hay
cefiderocol.
Việc
phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh có hoạt tính với AB trên invitro được khuyến
cáo trong các trường hợp điều trị nhiễm khuẩn từ trung bình đến nặng do CRAB, ít
nhất cho đến khi đạt được đáp ứng lâm sàng. Nhiều nghiên cứu quan sát về hiệu
quả của liệu pháp kết hợp kháng sinh so với đơn trị liệu cho những kết quả khác
nhau trên những quần thể bệnh nhân khác nhau, nguồn nhiễm khuẩn khác nhau, các
quần thể vi sinh và sự đa dạng về loại cũng như các chế liệu kháng sinh… Tuy
chỉ một trong bảy thử nghiệm RCT được đánh giá chứng minh hiệu quả của liệu
pháp kết hợp, song liệu pháp này vẫn được đề xuất ưu tiên cho trường hợp nhiễm
rùng CRAB từ trung bình đến nặng bởi:
(i).
Thiếu dữ liệu lâm sàng ủng hộ cho việc sử dụng bất kì
một kháng sinh đơn lẻ nào trong nhiễm khuẩn nặng do CRAB
(ii).
Gánh nặng lớn gây ra bởi sự chậm trễ khởi đầu các phác
đồ kinh nghiệm bằng cách kháng sinh không có hoạt tính trên CRAB
(iii). Những
bệnh nhân nhiễm CRAB đa số liên quan đến nhiễm khuẩn nặng kéo dài, suy giảm
miễn dịch; trong khi phác đồ phối hợp có thể mang lại sự hồi phục sớm, ít nhất là
trong giai đoạn đầu.
(iv). Các
kháng sinh có hoạt tính trên CRAB có nguy cơ phát triển nhanh các dòng đề kháng
khi dùng đơn trị.
Liều
cao ampicillin-sulbatam được khuyến cáo là một phần trong liệu pháp điều trị
phối hợp, dù cho chủng CRAB phân lập được còn nhạy với ampicillin-sulbactam hay
không. Trái lại, fosfomycin và rifampin không được khuyến cáo dùng trong các
kết hợp điều trị do thiếu bằng chứng về lợi ích lâm sàng và các nguy cơ, bao
gồm sự phân bố thuốc không đều và biến chứng hô hấp như co thắt khí phế quản.
2.2. Vai trò của
sulbactam trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Sulbactam là một chất
ức chế β-lactamase nhóm A, có khả năng ức chế cạnh tranh không thuận
nghịch, ở liều cao, làm bão hòa PBP (PBP1 và PBP3) của
các chủng A.baumannii. Hoạt tính của Sulbactam chống
lại các chủng A. baumannii đã được chứng minh thông
qua nghiên cứu in vitro, mô hình động vật, và dữ liệu kết quả lâm
sàng. Hoạt tính mạnh của sulbactam không bị ức chế bởi các chất ức chế
β-lactamase khác.
Đối
với các chủng
CRAB còn nhạy cảm với ampicillin-sulbactam: Ampicillin-sulbactam
được chỉ định ưu tiên đơn trị nếu nhiễm khuẩn ở mức độ nhẹ. Hiện
nay, chưa đủ dữ liệu so sánh liệu rằng hiệu quả giữa liều
chuẩn
ampicillin-sulbactam liều chuẩn và liều cao trong nhiễm khuẩn do
CRAB
nhẹ có tương đương hay không. Do
đó,
ampicillin-sulbactam liều chuẩn (6g/3g) đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ được xem
là phù hợp nhất cho trường hợp nhiễm CRAB nhẹ, còn
ampicillin-sulbactam liều cao thì được cân nhắc như một thành phần của liệu
pháp phối hợp cho các trường hợp nhiễm khuẩn vừa đến nặng.
Về tính an toàn, kết quả một thử nghiệm RCT trên 28 bệnh nhân viêm phổi so sánh
giữa hai chế độ liều đơn trị ampicillin-sulbactam và colistin cho thấy độc tính
trên thận của ampicillin-sulbactam dường như thấp hơn rõ rệt khi so sánh với
các liệu pháp sử dụng polymxicin (colistin).
Đối
với các chủng
CRAB kém nhạy cảm với ampicillin-sulbactam:
Khuyến cáo hiện nay đề nghị dùng amipicilin-sulbactam kết hợp với tác nhân thứ hai. Một
phân tích gộp công bố năm 2021 bao gồm 18 nghiên cứu và 1835 bệnh nhân cho thấy
liều cao ampicilin-sulbactam (ít nhất 18g/ngày) kết hợp với tác nhân thứ hai là
liệu pháp hiệu quả nhất khi điều trị nhiễm trùng do CRAB trên những bệnh nhân
nặng.
2.3. Vai trò của polymxicin
trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Đối
với trường hợp nhiễm trùng CRAB nhẹ: Polymyxin B đơn trị
liệu có thể phù hợp dù mức độ bằng chứng cho thấy lựa chọn này không ưu thế hơn
so với ampicillin-sulbactam. Các trường hợp nhiễm trùng tiết niệu do CRAB thì
colistin được đề xuất thay thế cho Polymyxin B (do colistin chuyển đổi thành
dạng có hoạt tính trong đường tiết niệu). Tuy nhiên, hầu hết các bằng chứng
hiện tại cho thấy lợi ích của polymxicin giảm đáng kể, đặc biệt nếu dùng đơn
trị, trên những chúng Acinetobacter baumannii có MIC > 2 mcg/mL.
Đối
với trường hợp nhiễm trùng CRAB trung bình đến nặng:
Trong trường hợp này, các polymyxin chủ yếu được kê đơn như một thành phần của
liệu pháp kết hợp thay vì được kê đơn trị liệu vì:
(i). Các chế độ liều với colistin hiện nay còn chưa thống
nhất với các hướng dẫn khác nhau. Một số chế độ liều có thể chưa đạt nồng độ thuốc
trong huyết thanh cần thiết, dẫn đến giảm hiệu quả diệt khuẩn. Để xây dựng phác
đồ liều cho polymycin có thể tham khảo thêm khuyến cáo về liều sử dụng
polymycin theo đồng thuận thế giới công bố 2019 (International Consensus
Guidelines for the Optimal Use of the Polymyxins)
(ii).
Liều điều trị nhiễm trùng hệ thống của polymyxin đủ đạt
đến ngưỡng gây độc (mức 2mcg/mL) cho thận, điều này khiến cửa sổ trị liệu của
polymyxin rất hẹp.
(iii).
Hiệu lực của các polymyxin khi dùng đường tĩnh mạch tại
dịch lót biểu mô phế nang có thể dưới mức tối ưu và khiến cho hiệu quả diệt
khuẩn trong các nhiễm trùng hô hấp nặng do AB không đạt được một cách đầy đủ.
(iv).
Có một số báo cáo về thất bại lâm sàng và xuất hiện
kháng thuốc trong quá trình đơn trị liệu polymyxin.
2.4. Vai trò của các
dẫn chất tetracyclin trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Một
số dẫn xuất tetracycline có hoạt tính in vitro chống lại
CRAB bao gồm minocyclin, tigecyclin và eravacyclin. Các tác nhân này có
khả năng thoát khỏi cơ chế kháng tetracycline thông thường.Cũng giống với
polymyxin, các dẫn xuất tetracyclin cũng được chỉ định đơn trị liệu cho trường
hợp nhiễm trùng CRAB nhẹ và kết hợp với ít nhất một tác nhân khác để điều trị
nhiễm trùng CRAB từ trung bình đến nặng.Trong đó :
Trong
các dẫn chất, có xu hướng ưu tiên lựa chọn minocyclin dựa trên kinh nghiệm lâm
sàng lâu năm với kháng sinh này và dữ liệu về độ nhạy cảm sẵn có theo tiêu
chuẩn CLSI. Về chế độ liều, chế độ liều chuẩn được khuyến cáo hiện tại do CRAB
là 200mg mỗi 12 giờ uống hoặc truyền tĩnh mạch. Các nghiên cứu invitro cho thấy
việc bắt đầu bằng liều nạp 700mg nối tiết bởi liều duy trì 350mg mỗi 12 giờ cho
hiệu quả cao hơn so với liều chuẩn. Tuy nhiên cần thêm dữ liệu về hiệu quả và
tính an toàn của chế độ liều cao này trong các thử nghiệm lâm sàng để đánh giá trước
khi đưa vào thực hành.
Tigecyclin
liều cao là một lựa chọn thay thế cho minocyclin trong trường hợp không có
minocyclin hay bệnh nhân mẫn cảm với minocyclin. Eravacycline không được đề xuất để điều trị
nhiễm trùng CRAB cho đến khi có thêm dữ liệu lâm sàng để chứng minh rõ ràng lợi
ích trên lâm sàng của kháng sinh này.
2.5. Vai trò của
truyền kéo dài meropenem trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Meropenem
liều cao, tiêm truyền kéo dài thường không được chỉ định đơn trị liệu trong
trường hợp nhiễm trùng do CRAB mà đóng vai trò là một một thành phần của liệu
pháp phối hợp để điều trị nhiễm trùng CRAB từ trung bình đến nặng. Đối với
CRAB, liều meropenem cần thiết là 2g mỗi 8 giờ truyền kéo dài đến 3 giờ.
Đề
xuất liệu pháp phối hợp ba thuốc bao gồm (1) meropenem, ampicillin-sulbactam,
và minocyclin hoặc (2) meropenem, ampicillin-sulbactam, và polymyxin B/colistin
có thể tạo ra tác dụng diệt trừ vi khuẩn đối với CRAB thông qua các bằng chứng
trên in vitro. Liệu pháp phối hợp giữa meropenem và polymixin hay colistin,
không có tác nhân thứ ba, hiện nay không được khuyến cáo điều trị CRAB trên cơ
sở chưa đủ bằng chứng về lợi ích của phối hợp này.
Ngoài
ra, Imipenem-cilastatin có thể được sử dụng thay thế cho meropenem và có thể
duy trì hoạt tính diệt khuẩn đối với một số chủng Acinetobacter kháng meropenem.
Nhìn chung, cả ampicillin-sulbactam và meropenem (hoặc imipenem-cilastatin) đều
được sử dụng ở liều cao để điều trị nhiễm trùng CRAB. Do vậy, khả năng biểu
hiện độc tính có tiềm năng cao hơn, đặc biệt là các tác dụng ngoài ý muốn về
thần kinh, do vậy yếu tố này cần được theo dõi khi sử dụng kết hợp .
2.6. Vai trò của các
cefiderocol trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Cefiderocol
là tác nhân β-lactam mới duy nhất được FDA chấp thuận có hoạt tính in
vitro chống lại các chủng CRAB. Khoảng 95% các chủng CRAB nhạy
cảm với cefiderocol với MIC ≤ 4 mcg / Ml (theo CLSI). Trên thế giới,
cefiderocol được kê đơn như một thành phần của phác đồ kết hợp để tăng khả năng
có ít nhất một tác nhân hiệu quả được đưa vào phác đồ điều trị cho đến khi có
đủ những dữ liệu và bằng chứng lâm sàng chứng minh lợi ích của cefiderocol đơn
trị liệu. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận kháng sinh này tại Việt Nam còn nhiều
hạn chế. Bên cạnh đó, thất bại điều trị cũng được báo cáo trong vài trường hợp
sử dụng cefiderocol trên những bệnh nhân viêm phổi hoặc nhiễm trùng huyết do
CRAB. Vì vậy, việc khuyến cáo chỉ định cefiderocol tại những quốc gia có sẵn
kháng sinh này cũng được giữ ở một mức độ dè dặt so với các chế độ điều trị
khác, đặc biệt ở những bệnh nhân nặng.
2.7. Vai trò của các
rifamycin trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Nhóm
rifamycin bao gồm nhiều kháng sinh như rifampin, rifabutin và rifapentin tác
động bằng cách ức chế RNA polymerase của vi khuẩn. Dữ liệu chỉ ra rằng
rifabutin có hoạt tính mạnh đối với A. baumannii ở cả mô
hình in vitro và động vật, cao hơn đáng kể so với rifampin. Sự
phối hợp giữa rifabutin và các polymyxin đã được đề xuất do khả năng hiệp đồng
phá vỡ tính thấm của màng vi khuẩn, điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
sự xâm nhập nội bào của rifamycin và sau đó là ức chế tổng hợp protein của vi
khuẩn.
Tuy
nhiên, việc sử dụng rifabutin hay các rifamycin khác tỏng thực hành điều trị
CRAB chưa được khuyến cáo do thiếu dữ liệu về lợi ích trên các thử nghiệm lâm
sàng. Bên cạnh đó, do các độc tính và tương tác thuốc liên quan đến rifamycins mà
một lần nửa, rifabutin hiện nay chữa được xem như một thành phần của liệu pháp điều
trị nhiễm khuẩn do CRAB.
2.8. Vai trò của các
kháng sinh đường khí dung trong điều trị nhiễm khuẩn do CRAB
Khuyến
cáo hiện nay không đề xuất bổ sung kháng sinh khí dung để điều trị nhiễm trùng
đường hô hấp do CRAB vì nhiều nguyên nhân:
(i).
Chưa quan sát được lợi trong các thử nghiệm lâm sàng.
(ii).
Có khả năng là kháng sinh khí dung không đạt được sự
thâm nhập và/hoặc phân phối đủ khắp mô phổi để có hoạt tính diệt khuẩn đáng kể
.
(iii). Lo
ngại về khả năng phân bố không đồng đều của kháng sinh trong phổi bị nhiễm
trùng và khả năng gây ra các biến chứng hô hấp như co thắt phế quản.
3. Kết luận
Lựa
chọn kháng sinh trong điều trị nhiễm khuẩn do Acinetobacter baumannii kháng
carbapenem (CRAB) luôn là một thách thức lớn trong thực hành lâm sàng. Với
những bằng chứng hiện tại, ampicillin-sulbactam, polymyxin (colistin),
minocyclin là những tác nhân tiềm năng. Đơn trị liệu có thể áp dụng trên những
trường hợp nhiễm trùng nhẹ, cần kết hợp thêm với nhóm kháng sinh tiềm năng khác
(phối hợp ampicillin-sulbactam, meropenem truyền kéo dài và cyclin hoặc
colistin có thể xem là lựa chọn tốt và khả thi nhất) cho những bệnh nhân nhiễm
trùng nặng.
Tài liệu tham
khảo
1.
Tamma PD, Aitken SL, Bonomo RA, Mathers AJ, van
Duin D, Clancy CJ. Infectious Diseases Society of America Guidance on the
Treatment of AmpC β-lactamase-Producing Enterobacterales,
Carbapenem-Resistant Acinetobacter baumannii, and Stenotrophomonas
maltophilia Infections. Infectious Diseases Society of America 2021;
Version 2.0.
2.
Tuan Anh N, Nga TVT, Tuan HM, Tuan NS, Y DM,
Vinh Chau NV, Baker S, Duong HHT. Molecular epidemiology and antimicrobial
resistance phenotypes of Acinetobacter baumannii isolated from patients in
three hospitals in southern Vietnam. J Med Microbiol. 2017
Jan;66(1):46-53.
Dịch tóm:
SV.Dược ĐHDLS-K43-Huỳnh Nhựt Trường
Hiệu đính: DS.Nguyễn Thiên Vũ – Tổ Dược lâm sàng-thông
tin thuốc
PHỤ LỤC
Liều
kháng sinh khuyến cáo trong
điều trị nhiễm trùng
do CRAB theo IDSA 2021
Kháng sinh
|
Liều cho người lớn
(giả sử có chức năng gan, thận bình thường)
|
Ampicillin-sulbactam
|
-
9g IV mỗi 8h hơn 4 giờ hoặc 27g IV mỗi 24h như một liều duy trì
-
Nhiễm trùng nhẹ do thể phân lập CRAB do ampicillin-sulbactam, lý do sử dụng
3g IV mỗi 4 giờ - nếu không dung nạp hoặc có độc tính phát sinh do sử dụng
liều cao
|
Cefiderocol
|
2g
IV mỗi 8 giờ, tiêm truyền hơn 3 giờ
|
Colistin
|
Tham
khảo guideline đồng thuận của quốc tế về polymyxin *
|
Imipenem-cilastatin
|
500
mg IV mỗi 6 giờ, tiêm truyền hơn 3 giờ
|
Meropenem
|
2g
IV mỗi 8 giờ, truyền hơn 3 giờ
|
Minocycline
|
200
mg IV/PO mỗi 12 giờ
|
Polymyxin B
|
Tham
khảo guideline đồng thuận của quốc tế về polymyxin
|
Tigecycline
|
200
mg IV x 1 liều, sau đó 100 mg IV mỗi 12 giờ
|